Vùng nghèo

(Thoát nghèo chuẩn xác)

11-01-2021 | China.org.cn

Vùng nghèo

Vùng nghèo là chỉ những vùng có số người nghèo đông hơn, mức độ nghèo khó cao hơn so với những vùng khác. Kể từ khi cải cách mở cửa đến nay, hành động xoá đói giảm nghèo và phát triển với quy mô lớn của Trung Quốc lấy những vùng nghèođược xác định trong thời kỳ đặc biệt làm trọng tâm công tác. Năm 1982, Quốc vụ viện đã xác định 28 huyện trọng điểm phải hỗ trợ tại địa khu Định Tây và địa khu Hà Tây tỉnh Cam Túc và địa khu Tây Hải Cố khu tự trị Ninh Hạ (gọi tắt là “khu vực ba Tây”). Năm 1984, “Thông tư của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện về việc giúp vùng nghèo nhanh chóng thay đổi bộ mặt” được công bố, đã cơ bản hoạch định phạm vi đại thể của vùng nghèo trong cả nước.“Thông tư” chỉ ra, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, nền tảng công tác cũng như tình hình thực hiện chính sách, nền kinh tế nông thôn vẫn tồn tại tình trạng phát triển không cân bằng, đặc biệt là vẫn có những vùngcó dân số mấy chục triệungười vẫn chưa thoát nghèo, vấn đề ấm no của quần chúng vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn. Trong đó tuyệt đại đa số là vùng núivà vùng sâu vùng xa, có một sốvùng lại là những vùngcó dân tộc thiểu số sống tập trung và vùng căn cứ địa cách mạng cũ. Giải quyết vấn đềvùng nghèo phải làm nổi bật trọng điểm,đặc biệt làtập trung nguồn lực giải quyết vấn đề mười mấy vùng nghèo liền nhau. Công tác xoá đói giảm nghèo sau đó tuy có điều chỉnh về phạm vi của vùng nghèo, nhưng về đại thể đã tuân theo tư duy cơ bản về hoạch định phạm vi nói trên. Năm 1986, Quốc vụ viện đã lần lượt xác định 331 huyện nghèo trọng điểm mà nhà nước phải hỗ trợ trong phạm vi toàn quốc. Năm 1988, Quốc vụ viện lại xác định 27 huyện nghèo trọng điểmmànhà nước phải hỗ trợ tại các khu chăn thả ở Hà Bắc, Nội Mông Cổ, Tứ Xuyên, Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương. Dựa vào tình hình cụ thể của riêng mình, các tỉnh và khu tự trị cũng đã xác định hơn 300 huyện nghèotrọng điểm cấp tỉnh cần phải hỗ trợ. Do đó, đến cuối năm 1988, cả nước có tổng cộng 664 huyện nghèo. Sau đó, cá biệt tỉnh, khu tự trị tăng phạm vi hỗ trợ, tổng số huyện nghèo trong cả nước lên đến 699 huyện. Năm 1994, các huyện nghèo được đưa vào dánh sách hỗ trợ của “Chương trình công kiên xoá đói giảm nghèo Bát Thất[1] quốc gia (Giai đoạn 1994 – 2000)” được điều chỉnh thành 592 huyện. Năm 2001, căn cứ vào yêu cầu “Đề cương xoá đói giảm nghèo và phát triển khu vực nông thôn Trung Quốc (Giai đoạn 2001 – 2010)”, Trung Quốc đã xác định lại 592 huyện nghèo trọng điểm quốc gia và 148 nghìn làng nghèo trong công tác xoá đói giảm nghèo và phát triển.

Từ Đại hội Đảng XVIII đến nay, cùng với trận chiến công kiên thoát nghèo bắt đầu toàn diện, tầm quan trọng của việc thực hiện thoát nghèo chovùng nghèo được thể hiện nổi bật hơn, được gọi là khu vực có nhiệm vụ nặng nề nhất trong việc hoàn thành xây dựng toàn diện xã hội khá giả, là chiến trường chính trong việc đánh thắng trận chiến công kiên thoát nghèo.



[1]Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định: Từ năm 1994 đến năm 2000, tập trung sức người, sức của, huy động các lực lượng xã hội, cơ bản giải quyết vấn đề ấm no cho 80 triệu người nghèo nông thôn trong vòng 7 năm.

贫困地区

贫困地区是指那些贫困人口数量、贫困深重程度高于其他区域的地区。改革开放以来,中国大规模的扶贫开发行动以特定时期所确定的贫困地区为工作重点。1982年,国务院在甘肃的定西地区、河西地区和宁夏的西海固地区(简称“三西地区”)划定了28个重点扶持县。1984年,《中共中央 国务院关于帮助贫困地区尽快改变面貌的通知》发布,基本奠定了全国贫困地区大致范围。《通知》指出,由于自然条件、工作基础和政策落实情况的差异,农村经济还存在发展不平衡的状况,特别是还有几千万人口的地区仍未摆脱贫困,群众的温饱问题尚未完全解决。其中绝大部分是山区和边远地区,有的还是少数民族聚居地区和革命老根据地。解决贫困地区的问题要突出重点,特别是集中力量解决十几个连片贫困地区的问题。此后的扶贫开发工作虽对贫困地区的范围有所调整,但大体遵循了上述范围界定的基本思路。1986年,国务院在全国范围内陆续确定了331个国家重点扶持贫困县。1988年,国务院在河北、内蒙古、四川、甘肃、青海和新疆的牧区中又确定了27个国家重点扶持县。各省、自治区也根据各自具体情况确定了300多个省级重点扶持县。由此,到1988年年底,全国共有贫困县664个。后来个别省、自治区增加扶持范围,全国贫困县总数达到699个。1994年,列入《国家八七扶贫攻坚计划(1994—2000年)》扶持范围的贫困县调整为592个。2001年,根据《中国农村扶贫开发纲要(2001—2010年)》的要求,中国重新确定了592个国家扶贫开发工作重点县、 14.8万个贫困村。

中共十八大以来,随着脱贫攻坚战的全面打响,贫困地区脱贫的重要性进一步凸显,被称为全面建成小康社会任务最繁重的区域,是打赢脱贫攻坚战的主战场。